Hàng hóa TG sáng 20/8: Dầu, vàng tiếp tục giảm
(VINANET) – Phiên giao dịch 19/8 trên thị trường thế giới (kết thúc vào rạng sáng 20/8 giờ VN), chỉ số giá 12 hàng hóa nguyên -Thomson Reuters/CoreCommodity CRB giảm 0,5% xuống mức thấp nhất 6 tháng rưỡi do đồng USD tăng giá so vói rổi tiền tệ.
Trên thị trường năng lượng, giá dầu đồng loạt giảm, với dầu thô kỳ hạn trên thị trường New York giảm xuống dưới 95 USD/thùng.
Hợp đồng kỳ hạn tháng 9 giá giảm 2% xuống 94,48 USD/thùng trên sàn Nymex, ghi nhận mức giá thấp nhất kể từ ngày 17/1. Các hợp đồng giao tháng 9 sẽ hết hạn trong ngày hôm nay 20/8 và cũng chính là nguyên nhân khiến giá dầu giảm thấp. Hợp đồng giao tháng 10 giảm 1% xuống 92,86 USD/thùng. Giá dầu Brent giảm 4 xu xuống 101,56 USD/thùng trên sàn ICE, ghi nhận mức giá thấp nhất 14 tháng.
Giá dầu Mỹ đã giảm 12% so với mức cao nhất 9 tháng hồi tháng 6 do dự trữ dầu toàn cầu luôn ở mức cao bất chấp chiến sự dai dẳng.
Nhiều chuyên gia kỳ vọng, giá dầu tại Mỹ sẽ tăng lên do nguồn cung tại Cushing, Okla trong vài tháng gần đây liên tục giảm thấp. Hôm nay, Ủy ban Thông tin năng lượng Mỹ sẽ công bố số liệu tồn kho dầu trong tuần kết thúc vào ngày 15/8.
Trên thị trường kim loại quý, giá vàng cũng giảm phiên thứ 3 liên tiếp do USD tăng và nhiều số liệu tích cực từ Mỹ.
Số nhà khởi công xây dựng tại Mỹ tăng, làm giảm nhu cầu vàng như khoản đầu tư thay thế.
Giá vàng giao tháng 12 trên sàn COMEX giảm 0,2% xuống 1.296,7 USD/ounce, với khối lượng giao dịch thấp hơn 41% so với mức trung bình 100 ngày, theo số liệu của Bloomberg. Hôm 15/8, giá chạm 1.293 USD, mức thấp nhất kể từ 6/8.
USD tiếp tục tăng 0,4% so với các đồng tiền chính trong giỏ tiền tệ sau khi số liệu của Mỹ cho thấy giá nhà bắt đầu phục hồi mạnh mẽ trong tháng 7 sau khi giảm 2 tháng liên tiếp. Bên cạnh đó, giá tiêu dùng tại Mỹ tháng 7 cũng tăng.
Căng thẳng địa chính trị lắng dịu cũng thúc đẩy nhà đầu tư đầu tư nhiều hơn vào tài sản rủi ro, hướng đến thị trường chứng khoán và phần nào tạm rời ra kim loại quý.
Căng thẳng tại Ukraine và Trung Đông đã khiến giá vàng tăng gần 8% trong năm nay khi nhà đầu tư chuyển hướng đầu tư vào tài sản trú ẩn an toàn.
Thị trường đang chờ đợi phiên họp thường niên của lãnh đạo các ngân hàng trung ương tại Jackson Hole, Wyoming vào hôm thứ 5 (21/8) tới đây, kể cả tuyên bố của chủ tịch Fed Janet Yellen vào hôm thứ 6 (22/8) – sẽ mang lại manh mối về thời điểm tăng lãi suất.
Ngân hàng trung ương Mỹ được dự đoán sẽ nâng lãi suất vào giữa năm tới, tùy thuộc vào tăng trưởng của nền kinh tế. Tháng trước, giá vàng giảm 3% trước đồn đoán Fed sẽ tăng lãi suất khi kinh tế Mỹ tiếp tục đà tăng trưởng.
Giá vàng đã từng cao kỷ lục sau khi Fed hạ lãi suất sau cuộc khủng hoảng tài chính. Tuy nhiên Fed đang nâng dần lãi suất, và lãi suất tăng sẽ khuyến khích nhà đầu tư rút tiền từ tài sản không lãi suất như vàng.
Giá vàng được hỗ trợ phần nào trước tin tức Quỹ tín thác lớn nhất thế giới SPDR hôm 18/8 mua vào 2,09 tấn vàng nâng lượng vàng nắm giữ lên 797,69 tấn, lần mua vào đầu tiên trong gần 4 tuần qua.
Với các kim loại quý khác, giá bạc xuống mức thấp nhất 2 tháng khi chạm 19,33 USD/ounce, giá bạch kim giảm 0,4% xuống 1.433,25 USD/ouce, giá palladium giảm 1,5% xuống 875,7 USD/ounce.
Trên thị trường nông sản, giá đường xuống mức thấp nhất nhiều tháng do dự trữ tăng, cacao cũng giảm trở lại.
Đường thô kỳ hạn tại New York kỳ hạn giao tháng 10 giá giảm 0,21 US cent hay 1,3% xuống 15,47 US cent/lb. Trong phiên có lúc giá xuống chỉ 15,44 US cent, thấp nhất kể từ 12/2.
Cacao cũng giảm từ mức cao kỷ lục 3 năm sau khi liên tục tăng trước đó bởi dự báo thị trường cacao thế giới sẽ thiếu cung năm thứ 3 liên tiếp.
Cà phê tiếp tục xu hướng giảm giá của phiên trước bởi CoffeeNetwork, thuộc tập đoàn INTL FCStone, vẫn duy trì dự báo về sản lượng của Brazil niên vụ 2014/15 ở mức 50 triệu bao loại 60 kg.
Cà phê kỳ hạn tháng 11 tại New York giá giảm 9 USD hay 0,5% xuống 1.947 USD/tấn.
CoffeeNetwork dự báo sản lượng của Việt Nam sẽ đạt 30 triệu bao trong niên vụ 2014/15, tang so với 28 triêu bao của niên vụ trước.
Hàng hóa
|
ĐVT
|
Giá
|
+/-
|
+/- (%)
|
Dầu thô WTI
|
USD/thùng
|
94,91
|
-1,51
|
-1%
|
Dầu Brent
|
USD/thùng
|
101,53
|
-0,07
|
-0,03%
|
Dầu thô TOCOM
|
JPY/kl
|
65.460,00
|
+190,00
|
+0,29%
|
Khí thiên nhiên
|
USD/mBtu
|
3.79
|
0.00
|
0.00%
|
Xăng RBOB FUT
|
US cent/gallon
|
271,08
|
+1,54
|
+0,57%
|
Dầu đốt
|
US cent/gallon
|
281,50
|
-0,21
|
-0,07%
|
Dầu khí
|
USD/tấn
|
856,25
|
+0,50
|
+0,06%
|
Dầu lửa TOCOM
|
JPY/kl
|
81.670,00
|
+150,00
|
+0,18%
|
Vàng New York
|
USD/ounce
|
1.296,70
|
-26
|
0,00%
|
Vàng TOCOM
|
JPY/g
|
4.291,00
|
+3,00
|
+0,07%
|
Bạc New York
|
USD/ounce
|
19,44
|
-0,20
|
-0,99%
|
Bạc TOCOM
|
JPY/g
|
64,50
|
-0,60
|
-0,92%
|
Bạch kim giao ngay
|
USD/t oz.
|
1.441,44
|
+2,50
|
+0,17%
|
Palladium giao ngay
|
USD/t oz.
|
882,53
|
+1,02
|
+0,12%
|
Đồng New York
|
US cent/lb
|
311,40
|
-0,50
|
-0,16%
|
Đồng LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
6.867,50
|
-37,50
|
-0,54%
|
Nhôm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.039,00
|
+20,00
|
+0,99%
|
Kẽm LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
2.302,00
|
+20,00
|
+0,88%
|
Thiếc LME 3 tháng
|
USD/tấn
|
22.400,00
|
-25,00
|
-0,11%
|
Ngô
|
US cent/bushel
|
371,25
|
-1,00
|
-0,27%
|
Lúa mì CBOT
|
US cent/bushel
|
558,50
|
0,00
|
0,00%
|
Lúa mạch
|
US cent/bushel
|
339,25
|
-0,50
|
-0,15%
|
Gạo thô
|
USD/cwt
|
12,93
|
-0,03
|
-0,23%
|
Đậu tương
|
US cent/bushel
|
1.052,75
|
0,00
|
0,00%
|
Khô đậu tương
|
USD/tấn
|
352,60
|
-0,10
|
-0,03%
|
Dầu đậu tương
|
US cent/lb
|
33,12
|
+0,11
|
+0,33%
|
Hạt cải WCE
|
CAD/tấn
|
427,00
|
+0,10
|
+0,02%
|
Cacao Mỹ
|
USD/tấn
|
3.204,00
|
-56,00
|
-1,72%
|
Cà phê Mỹ
|
US cent/lb
|
186,15
|
-6,95
|
-3,60%
|
Đường thô
|
US cent/lb
|
15,47
|
-0,21
|
-1,34%
|
Nước cam cô đặc đông lạnh
|
US cent/lb
|
148,45
|
-0,95
|
-0,64%
|
Bông
|
US cent/lb
|
64,27
|
+0,11
|
+0,17%
|
Lông cừu (SFE)
|
US cent/kg
|
-
|
-
|
-%
|
Gỗ xẻ
|
USD/1000 board feet
|
354,50
|
+1,90
|
+0,54%
|
Cao su TOCOM
|
JPY/kg
|
198,80
|
+0,90
|
+0,45%
|
Ethanol CME
|
USD/gallon
|
1,99
|
-0,02
|
-0,90%
|